Tên khoa học:
Scirpophaga incertulas Walker
Họ: Ngài sáng (Pyralidae)
Bộ: Cánh vảy (Lepidoptera)
Ruộng lúa bị sâu đục thân
Đặc điểm gây hại của sâu đục thân bướm 2 chấm:
Sâu đục thân gây hại biến đổi tùy theo giai đoạn sinh trưởng của cây lúa và tuổi phát dục của sâu.
Hình ảnh bướm 2 chấm và sâu đục thân lúa
– Thời kỳ mạ: Sâu đục qua bẹ phía ngoài vào đến nõn giữa phá hại làm cho dảnh lúa bị héo.
– Cây lúa ở thời kỳ đẻ nhánh: sâu đục vào phần dưới của thân, cắt đứt tổ chức bên trong phá hại chức năng dẫn nhựa làm cho lá non trước tiên bị cuốn dọc, có màu xanh tái sẫm, dần chuyển sang màu vàng và héo khô.
– Thời kỳ sắp trỗ hoặc mới trỗ: sâu đục qua lá bao của đòng chui vào giữa rồi bò xuống đục ăn điểm sinh trưởng, cắt đứt các mạch dẫn dinh dưỡng làm cho bông lép trắng.
Đặc điểm hình thái của sâu đục thân bướm 2 chấm:
– Trứng: hình đẻ thành ổ hình bầu dục, trên mặt phủ lớp lông màu vàng nhạt, ở giữa nhô lên. Mới đẻ trứng có màu trắng, sau chuyển ngà vàng, sắp nở màu đen.
– Sâu non: đẫy sức màu trắng sữa, đầu màu nâu vàng. Chân bụng ít phát triển, móc bàn chân bụng có 28 cái xếp thành hình elip.
– Nhộng: con cái có chân sau dài hết đốt bụng 5, còn con đực có chân sau dài tới đốt bụng 8. Nhộng mới hóa có màu trắng sữa, sau chuyển màu vàng nhạt.
– Con trưởng thành:
+ Ngài đực có đầu ngực và cánh trước màu nâu vàng nhạt hình tam giác; giữa cánh có một chấm đen; từ đỉnh cánh đến mép sau có một vệt xiên màu nâu đen, mép ngoài cánh có 9 chấm đen nhỏ; mắt kép, to đen.
+ Ngài cái có thân màu trắng vàng hoặc vàng nhạt, cuối bụng có chùm lông màu vàng nhạt, giữa cánh trước có một chấm đen.
Đặc điểm sinh học, sinh thái và gây hại:
* Vòng đời:
+ Vòng đời trung bình của sâu đục thân lúa bướm 2 chấm từ 43 – 66 ngày.
+ Ở 19 – 250C: Trứng: 8 – 13 ngày; sâu non: 36 – 39 ngày, nhộng: 12 – 16 ngày, bướm vũ hóa – đẻ trứng: 3 ngày.
+ Ở 26 – 300C: Trứng: 7 ngày; sâu non: 25 – 33 ngày, nhộng: 8 – 10 ngày, bướm vũ hóa – đẻ trứng: 3 ngày.
* Đặc điểm sinh học và gây hại của sâu đục thân bướm 2 chấm:
– Sâu non qua đông tới mùa xuân hóa nhộng.
– Nhộng hóa trong gốc thân lúa ở dưới mặt đất 1 – 2 cm. Trước khi hóa nhộng sâu đục sẵn một lỗ ở thân lúa, chừa lại một lớp biểu bì mỏng để khi vũ hóa đục chui ra.
– Sâu đục thân phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ từ 23 –30oC, độ ẩm trên 90%.
– Khả năng gây dảnh héo và bông bạc của sâu non từ một ổ trứng là 12 dảnh khi lúa đẻ nhánh và 9,2 bông bạc khi lúa trỗ (khi mật độ ổ trứng thấp hơn 5 ổ/ m2).
– Lúa ở thời kì đẻ nhánh rộ, nhất là thời kì làm đòng – trỗ là giai đoạn xung yếu với sâu đục thân.
– Trong một năm sâu đục thân có 7 lứa trong đó lứa 2, 3, 5, 6 có ý nghĩa lớn đối với sản xuất. Lứa 2 là lứa cuối trong vụ chiêm xuân và cũng là lứa sâu quan trọng nhất về mặt số lượng, mức độ gây hại và là nguồn sâu chuyển từ vụ chiêm xuân sang vụ mùa. Lứa 3 là lứa đầu tiên trong vụ mùa , thường tập trung phá trên mạ mùa sớm. Đây là lứa sâu bắc cầu từ lúa chiêm xuân qua lúa mùa. Lứa 5 là lứa gây hại quan trọng đối với lúa mùa cấy sớm đang làm đòng trỗ bông. Lứa 6 là lứa gây hại nặng cho lúa mùa đại trà đang trỗ nhất là trên lúa nếp, tám.
Kẻ thù tự nhiên của sâu đục thân hai chấm:
+ Các loài ong ký sinh đã phát hiện trên trứng sâu đục thân bướm hai chấm: Ong Trichogramma japonicum Ashmead; Tri. dendrolimi Mats; Tri. chilonis Tschii; Telenomus rowani Gahan; T. dignus Gahan; Tetrastichus schoenobii Ferrier.
+ Loài Tetrastichus thường xuất hiện và ký sinh với tỷ lệ cao và những tháng nhiệt độ thấp, các loài ong khác thì vào những tháng ấm và nóng
+ Ngoài giai đoạn trứng bị kí sinh, sâu non cũng có thể bị nhiều loài ong kí sinh khác. Năm 2000 ở Nghệ An đã phát hiện 14 loài thiên địch của sâu đục thân bướm 2 chấm (Trần Ngọc Lâm, 2000).
Ong Trichogramma japonicum Ashmead (Nguồn Internet)
Biện pháp phòng trừ sâu đục thân bướm 2 chấm:
– Biện pháp canh tác, kỹ thuật:
+ Cày lật gốc rạ, ngâm nước, làm dầm kịp thời (đặc biệt đối với lúa vụ mùa sau khi gặt). Tránh tình trạng để tới tháng 1 – 2 đầu năm mới tiến hành cày.
+ Khi thu hoạch lúa cần cắt sát gốc rạ. Rơm rạ trên ruộng sau khi gặt cần được thu dọn gọn
+ Bón phân cân đối theo quy trình kỹ thuật quy định cho từng vụ, từng chân đất, từng giống lúa. Hạn chế sử dụng phân đạm quá liều lượng và bón không đúng cách dẫn đến tình trạng lúa lốp hoặc đẻ lai rai tạo điều kiện cho sâu phá hoại mạnh.
+ Nếu đều kiện tưới tiêu chủ động có thể điều chỉnh mực nước ở ruộng để diệt sâu.
+ Theo dõi các đợt bướm ra quanh năm tổ chức đốt đèn bẫy bướm trên diện rộng đồng loạt – cùng một thời gian.
+ Ngắt ổ trứng sâu gom lại và đem tiêu hủy.
– Biện pháp sinh học:
+ Phát huy tác dụng của nhóm thiên địch nhất là ong ký sinh trứng.
– Biện pháp hóa học: Thuốc trừ sâu đục thân đặc hiệu hiện nay chủ yếu có 2 nhóm:
+ Nhóm chlorantranliprole (DupontTM Prevathon, Virtako,Voliam targo. Nhóm này có tác dụng nội hấp.
+ Nhóm chlopyriphos Ethyl có tác động tiếp xúc thấm sâu hiệu quả phòng trừ tốt nhưng độ độc cao gây bộc phát rầy cuối vụ.
– Thời điểm phun thuốc thích hợp nhất:
Phun hiệu quả nhất là vào thời điểm lúa trỗ (sau khi bướm có mật độ cao 7 ngày, mật độ ổ trứng ≥0,2 ổ/m2).
Mặc dù sâu đục thân 2 chấm gây hại cho lúa từ giai đoạn mạ đến đẻ nhánh, đòng, trỗ xong. Tuy nhiên trong giai đoạn đẻ nhánh cây lúa có khả năng đền bù, giai đoạn đòng trỗ cây không có khả năng đền bù, mặt khác vào giai đoạn này khả năng xâm nhập vào cuống rơm của đòng là dễ nhất và thiệt hại vào thời kỳ này cũng là cao nhất. Khi bướm có mật độ cao sau 7 ngày trứng mới nở trùng với thời kỳ lúa trỗ bông (thời gian lúa trỗ cũng thường 5 – 7 ngày). Nếu mật độ ổ trứng ≥0,2 ổ/m2 phun 1 lần và khi ổ trứng≥1,0 ổ/m2 phải phun kép, lần 2 cách lần trước từ 5-7 ngày.
Việc phun thuốc trừ sâu đục thân phải chọn thời điểm đúng mới đem lại hiệu quả cao.
Nguồn: Tổng hợp