Bọ lá đậu


Tên khoa học:
Cerotoma trifurcata

Tên khoa học: Cerotoma trifurcata

Họ: Chrysomelidae

Bộ: Coleoptera

Đặc tính sinh học của bọ cánh cứng (bọ lá đậu/sâu ăn lá đậu) Cerotoma trifurcata:

Bọ cánh cứng và virus đốm quả đều là hai loại dịch hại ảnh hưởng lớn đến cây đậu tương (đậu nành).

Bọ lá đậu và biện pháp phòng trừ

Hình 1: Bọ cánh cứng với  màu sắc biến đổi dần từ màu cam sang màu đỏ sang cam và vàng nhạt.

+ Thành trùng: Thành trùng biến, từ màu đỏ sang màu cam sang màu vàng nhạt (Hình. 1).

Thường các thành trùng có bốn đốm đen vuông vức trên cánh, tuy nhiên cũng có trường hợp cánh của bọ cánh cứng có hai hoặc không có ô màu đen hay được phủ một vệt to màu đen. Một tam giác màu đen, gọi là lớp vảy, thường có sau gáy của bọ cánh cứng (Hình 2). Bất kể các côn trùng có bốn, hai, hoặc không có màu đen “ô vuông” trên cánh, bọ cánh cứng cái hay có mặt màu đen, trong khi những con bọ cánh cứng đực thường có mặt màu xám. 

Bọ cánh cứng hại đậu tương và biện pháp phòng trừ

Hình 2: Thành trùng bọ cánh cứng Cerotoma trifurcata luôn luôn có điểm nhận dạng là có 1 hình tam giác đen ở vị trí A, hầu hết cũng có 4 hình vuông ở vị trí B, và một vành đen trên vị trí C ở cánh. 

+ Trứng: Trứng Bọ cánh cứng hình quả chanh và có màu cam, và chúng được tìm thấy trong đất quanh gốc cây đậu tương. Ngoài ra, trứng của bọ cánh cứng trong đất ướt hoặc ẩm ướt nhiều hơn trong đất khô. Trứng bọ lá đậu mất một tuần để nở ở (ở nhiệt độ 28°C). Đất quá ẩm hoặc quá khô đều có thể làm hỏng trứng hoặc ảnh ưởng đến quá trình nở của trứng. Trứng bọ lá đậu thích hợp với đất hữu cơ hơn so với cát pha sét và sét pha cát. Bọ cánh cứng ăn ấu trùng trong đất trên rễ đậu tương và nốt sần. Ấu trùng phát triển qua ba giai đoạn trước khi thành nhộng trong đất. Ấu trùng có khả năng di chuyển trong đất và trong điều kiện đất khô có thể di chuyển lên đến 30 cm mỗi giờ để tìm kiếm của độ ẩm. Các loại đất có thức ăn cho ảnh hưởng đến khả năng sống sót của ấu trùng. Trong điều kiện đất ẩm, ấu trùng sống sót tốt nhất trong đất hữu cơ (0-4% tỷ lệ chết) so với cát pha sét (87-100% tỷ lệ chết) và thịt pha cát sét (0 -20% tỷ lệ chết).

+ Ấu trùng: Khi ấu trùng (sâu lá đậu) đầu tiên lên khỏi mặt đất, mình rất mềm và cơ thể thường là màu be màu (Hình. 2).

Bọ ăn lá đậu và biện pháp phòng trị hữu hiệu

Hình 3: Ấu trùng (sâu) bọ lá đậu khi mới lên khỏi mặt đất.

Ấu trùng dưới mặt đất phát triển dài ra giống con sâu, mình màu trắng đến màu be, đầu hai đầu màu nâu sẫm (Hình 3). Màu nâu sẫm đến từ sclerotization đầu của ấu trùng và phân khúc bụng trước. Ấu trùng có thể phát triển đến 10 mm, hình trụ tương tự sâu hại rễ ngô (Diabrotica spp.) Ấu trùng. Các nhộng có màu trắng, Ϸ 5 mm, và kèm theo trong tế bào bằng đất. Họ bọ lá đậu có nhiều ký chủ lớn, chủ yếu là trên các cây họ đậu bao gồm cỏ ba lá (Trifolium spp.) và đậu tương (đậu nành).

Đặc điểm sinh học và gây hại của bọ cánh cứng (bọ lá đậu/sâu ăn lá đậu) Cerotoma trifurcata:

Bọ lá đậu (Bọ cánh cứng) Cerotoma trifurcata (F ̈rster) là một dịch hại của cây đậu nành. Thành trùng (bọ cánh cứng) ăn lá mầm, lá và vỏ quả, trong khi thức ăn ấu trùng (sâu) trên các nốt đậu tương gắn vào rễ. Hơn nữa, bọ lá đậu cũng truyền virus đốm quả, một loại virus phổ biến của đậu tương. Bọ lá đậu có thể được tìm thấy ở các vùng trồng đậu tương lớn.

Có thể bạn quan tâm :   Sâu đục thân bướm cú mèo

Những con bọ cánh cứng giao phối và phân tán cho nhiều trên các cây như: cỏ linh lăng (Medicago sativa L.) và các loại đậu khác như đánh dấu cây chĩa ba (Desmodium spp.) và cỏ ba lá. 

Bọ lá đậu trưởng thành bay đến ruộng đậu tương (đậu nành), thực vật yêu thích của bọ cánh cứng (Hình 5 và 6). Bọ lá đậu cái bay tới vùng trồng đậu nành và mang trứng (tức là, giao phối và mang trứng) đặt thành các cụm nhỏ của trứng trong vòng 3,8 cm bề mặt đất và trong vòng 5,1 cm bán kính của cây đậu nành. Mỗi con cái đẻ 130-200 trứng trong suốt cuộc đời của nó.

Khi được lựa chọn, bọ cánh cứng cái ưa thích đẻ trứng trong đất hữu cơ hơn là đất sét pha cát hoặc cát pha sét.

Bọ lá đậu và biện pháp phòng trị

Hình 4:  Qua mùa đông bọ cánh cứng mới nổi từ đất hình thành thế hệ đầu tiên của thành trùng trong một năm nhất định. Tùy thuộc vào thời gian của sự mọc và các giai đoạn phát triển đậu tương, bọ trưởng thành có thể giao phối một lần nữa và đẻ trứng.

Lá đậu bị bọ cánh cứng phá hại

Hình 5: Lá đậu bị phá hại do thành trùng bọ cánh cứng Cerotoma trifurcata ăn

Ấu trùng bọ lá ăn nốt rễ đậu tương (đậu nành), đậu sẽ đền bù cho ăn ấu trùng bằng cách phát triển các nốt bổ sung. Tuy nhiên, nếu sự phá hoại của ấu trùng nặng nề (19 ấu trùng trên cây) có thể gây ra nốt sần nhỏ hơn và giảm bớt lá và vỏ nitơ. 

Thiệt hại kinh tế do ấu trùng ăn nốt sần thì không xác định tuy nhiên chúng ta có thể thấy rõ thành trùng phát triển ăn các bộ phận trên mặt đất của đậu nành như lá mầm, lá và vỏ quả (Hình 4 – 8). 

Thành trùng có thể ăn bắt đầu ở cạnh lá hay ở giữa của lá thành lỗ tròn trong các mô giữa gân lá. 

Lá đậu tương bị bọ lá đậu phá hại

Hình 6: Lá đậu bị phá hại do thành trùng bọ cánh cứng Cerotoma trifurcata ăn

Ảnh hưởng của thức ăn của bọ lá đậu phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của cây. Một một con bọ ăn lá đậu tương trong giai đoạn sinh dưỡng 14 ngày được ước tính tiêu thụ lên đến 13,93 cm2 diện tích của lá. Việc phá hại của bọ lá đậu thường làm giảm năng suất từ 12% hoặc hơn như thế.

Cerotoma trifurcata bọ cánh cứng phá hại quả đậu tương

Hình 7: Bọ lá đậu Cerotoma trifurcata phá hại quả đậu tương (đậu nành)

Trong thời gian đậu tương hình thành quả, làm đầy hạt, bọ cánh cứng có thể ăn trên bề mặt vỏ quả đậu. Các vết ăn trên bề mặt vỏ quả đậu là nguyên nhân dẫn đến nhiễm trùng thứ cấp do vi khuẩn và nấm, các lỗ sẹo của vỏ đậu tương dẫn đến độ ẩm của hạt bị thừa. Các hạt trên quả bị hại có thể trở nên teo tóp, mất màu và mốc (Hình 8).

Hạt đậu tương bị bọ cánh cứng Cerotoma trifurcata phá hại

Hình 8: Hạt đậu trên quả đậu bị hại có thể bị teo tóp hoặc mất màu và mốc

Biện pháp phòng trị bọ cánh cứng (bọ lá đậu/sâu ăn lá đậu) Cerotoma trifurcata và bệnh Virus do bọ lá đậu gây ra:

Nêu chi tiết tại bài viết: Quản lý sâu hại tổng hợp (IPM) trên cây đậu tương (đậu nành)

Nguồn: www.researchgate.net